Nhân dịp kỷ niệm 80 năm Quốc khánh 2/9, Phó Thống đốc thường trực Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Đào Minh Tú đã có những chia sẻ về dấu ấn nổi bật của ngành Ngân hàng trong quá khứ, hiện tại và tầm nhìn chiến lược đến năm 2045.

Phóng viên: Nhân dịp kỷ niệm 80 năm ngày Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945-2/9/2025) và 74 năm ngày thành lập Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, xin đồng chí chia sẻ góc nhìn về những đóng góp của Ngân hàng Nhà nước về điều hành chính sách tiền tệ trong sự nghiệp phát triển của đất nước suốt gần 8 thập kỷ qua?
Phó Thống đốc Đào Minh Tú: Cùng với quá trình đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng và phát triển đất nước, hoạt động của ngành Ngân hàng đã có những đổi mới sâu sắc, nhất là trong lĩnh vực hoạch định, thực thi chính sách tiền tệ (CSTT). NHNN đã từng bước hoàn thiện, đổi mới các công cụ CSTT, ngày càng tiến gần tới các nghiệp vụ ngân hàng trung ương hiện đại, phù hợp với thông lệ quốc tế và xu thế phát triển của nền kinh tế đất nước. Bên cạnh đó, với một nền kinh tế đang phát triển, trong đó hệ thống ngân hàng là kênh cung ứng vốn chủ yếu cho nền kinh tế, CSTT đã phát huy vai trò là một trong những chính sách vĩ mô quan trọng của Chính phủ trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hướng tới phát triển kinh tế nhanh, bền vững. Và xuyên suốt chặng đường lịch sử trên, NHNN luôn kiên định, nhất quán mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, coi đây là mục tiêu ưu tiên hàng đầu trong quá trình điều hành CSTT. Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát là tiền đề để phát triển kinh tế đất nước, củng cố nền tảng vững chắc, duy trì niềm tin của nhà đầu tư, cộng đồng doanh nghiệp, người dân đối với môi trường kinh doanh, qua đó giúp thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, huy động và phân bổ tối ưu các nguồn lực.
Điều hành chính sách tiền tệ đã góp phần đạt được các kết quả nổi bật trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội đất nước như:
Thứ nhất, kiểm soát thành công lạm phát phù hợp với mục tiêu Quốc hội, Chính phủ đặt ra hằng năm và neo giữ kỳ vọng lạm phát ổn định, đảm bảo trong hơn 10 năm qua lạm phát luôn giữ dưới mức mục tiêu 4,5%. Đây là mục tiêu chính trị lớn nhất, quan trọng nhất, là nền tảng cơ bản để đảm bảo được sự ổn định của nền kinh tế, củng cố sức mạnh đồng nội tệ, tạo niềm tin cho nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Thứ hai, đảm bảo thanh khoản hệ thống TCTD, hỗ trợ cung ứng vốn đầy đủ, kịp thời nhu cầu sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ quá trình phát triển nền kinh tế.
Thứ ba, thị trường tiền tệ hoạt động ổn định, mặt bằng lãi suất cho vay có xu hướng giảm để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
Thứ tư, tỷ giá cơ bản ổn định, thị trường ngoại tệ thông suốt, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp được đáp ứng đầy đủ.
Thứ năm, trong bối cảnh rủi ro toàn cầu tăng lên và nhiều quốc gia trên thế giới liên tiếp bị hạ bậc xếp hạng do ảnh hưởng tiêu cực của dịch bệnh COVID-19, các tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế đều nâng hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam do nền tảng vĩ mô ổn định, tiềm năng tăng trưởng khả quan.
Phóng viên: Trong giai đoạn đất nước còn chia cắt và chiến tranh kéo dài, thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước gian khổ, NHNN đã thực hiện nhiệm vụ chính trị và tài chính như thế nào để góp phần vào thắng lợi chung?
Phó Thống đốc Đào Minh Tú: Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ (20/7/1954), 2 miền Nam - Bắc tạm thời bị chia cắt. Miền Bắc bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam bước vào cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Trong giai đoạn này, Ngân hàng Nhà nước đã đảm nhận một sứ mệnh vô cùng đặc biệt: Trở thành huyết mạch tài chính của cách mạng, đáp ứng nhu cầu kiến thiết nước nhà ở Miền Bắc cũng như chi viện hữu hiệu cho chiến trường Miền Nam phục vụ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng dân tộc.
Ở miền Bắc – hậu phương lớn của cả nước, hệ thống ngân hàng đã phát huy tối đa vai trò là công cụ đắc lực của Đảng và Nhà nước trong quản lý, điều tiết tiền tệ và tín dụng quốc gia, góp phần quan trọng vào việc ổn định kinh tế, phát triển sản xuất và từng bước xây dựng nền tảng của chủ nghĩa xã hội.
Trong giai đoạn này, hoạt động ngân hàng chủ yếu tập trung vào huy động vốn, tín dụng và tiền mặt, nhằm tạo thanh khoản và điều kiện cho sản xuất lương thực, thực phẩm. Các hoạt động đó nhằm xây dựng hậu phương vững chắc cho miền Nam, bảo đảm cuộc sống ổn định cho đồng bào và nhân dân miền Bắc.
Thông qua việc ban hành và triển khai đồng bộ các chính sách tài chính – tín dụng phù hợp với điều kiện chiến tranh, ngành Ngân hàng đã chủ động huy động mọi nguồn lực trong dân, trong hợp tác xã và các thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể.
Các dòng vốn tín dụng ngân hàng được gom lại, thậm chí huy động rất tích cực, với sự nhiệt tình và trách nhiệm của mỗi người dân, mỗi tổ chức kinh tế - xã hội ở miền Bắc, để đưa nguồn lực tài chính đến đúng những nơi cần thiết.
Đặc biệt, vốn tín dụng đã góp phần phát triển kinh tế hợp tác, kinh tế nông trường, hỗ trợ các nhà máy cơ khí, cũng như các công trình hạ tầng trọng điểm trong thời kỳ công nghiệp hóa ban đầu ở miền Bắc. Các hoạt động tín dụng đầu tư sản xuất, tín dụng khuyến nông, tín dụng tiết kiệm cũng đã góp phần hình thành nên một nền kinh tế tự lực, tự cường, từng bước thoát ly khỏi cơ chế bao cấp thủ công, hướng tới xây dựng nền tài chính – ngân hàng xã hội chủ nghĩa. Có thể nói, đây là giai đoạn hết sức quan trọng, tạo tiền đề cho những bước phát triển tiếp theo của ngành ngân hàng.
Ở miền Nam, nơi tuyến lửa, những người chiến sĩ thầm lặng của ngành Ngân hàng cũng đã trực tiếp tham gia vào cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc. Dù âm thầm, nhưng trên mặt trận tài chính – tiền tệ, họ đã có những đóng góp và hy sinh rất lớn, vượt qua bom đạn để tạo dựng và cung ứng nguồn lực chi viện cho chiến trường miền Nam. Chính những hoạt động ấy đã viết nên một con đường huyền thoại – con đường chuyển tiền bí mật, chi viện tài chính cho chiến trường miền Nam từ năm 1959 cho đến Ngày Giải phóng 1975.
Nhìn lại, có thể khẳng định rằng: Ngân hàng Nhà nước đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị – tài chính – tiền tệ trong giai đoạn đặc biệt của đất nước. Không chỉ bảo đảm tài chính cho kháng chiến, ngành Ngân hàng còn góp phần tạo dựng nền móng độc lập về tiền tệ, chủ quyền về kinh tế – tài chính, góp phần làm nên đại thắng mùa Xuân năm 1975, thu non sông về một mối, thống nhất đồng tiền – thống nhất lòng dân.
Phóng viên: Trong tầm nhìn đến năm 2045 - khi đất nước kỷ niệm 100 năm độc lập - đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc, NHNN đặt mục tiêu chiến lược như thế nào?
Phó Thống đốc Đào Minh Tú: Hướng tới tầm nhìn đến năm 2045 - dấu mốc trọng đại kỷ niệm 100 năm độc lập của dân tộc ta, NHNN xác định mục tiêu chiến lược là tiếp tục kiên định bám sát sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo và trách nhiệm cao, phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành và địa phương để thực hiện tốt nhất các mục tiêu phát triển chung của đất nước.
Trên tinh thần đó, NHNN đề ra một số mục tiêu, định hướng chính cho ngành Ngân hàng, nhằm hiện thực hóa khát vọng đưa Việt Nam trở thành quốc gia giàu mạnh, thịnh vượng, có thu nhập cao vào năm 2045.
Một là, đổi mới hoàn thiện, thể chế.
Hai là, tiếp tục theo dõi, dự báo sát tình hình kinh tế trong nước và quốc tế để tham mưu, báo cáo kịp thời với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các quyết sách phù hợp và điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả, phối hợp đồng bộ, hài hòa, chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế đạt mục tiêu 2 con số.
Ba là, điều hành tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế nhằm góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Bốn là, tiếp tục đầu tư nâng cấp, phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, hạ tầng thanh toán hiện đại. Bên cạnh đó, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, đảm bảo an ninh, an toàn và bảo mật hoạt động thanh toán, ngân hàng; thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao hơn nữa của doanh nghiệp và người dân.
Phóng viên: Thưa đồng chí, được biết cách đây 4 năm, nhân kỷ niệm 70 năm thành lập, Ngân hàng Nhà nước đã tổ chức biên soạn và phát hành công trình nghiên cứu “Lịch sử đồng tiền Việt Nam”. Xin đồng chí chia sẻ thêm về ý nghĩa và giá trị của công trình đặc biệt này?
Phó Thống đốc Đào Minh Tú: Đồng tiền, dưới góc nhìn lịch sử, không đơn thuần là phương tiện thanh toán, mà còn là tấm gương phản chiếu bối cảnh chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của từng thời kỳ. Từ những đồng tiền cổ xưa thời phong kiến, đến các loại giấy bạc Cách mạng được phát hành trong kháng chiến, cho tới đồng tiền thống nhất sau năm 1975 – tất cả đều kể lại câu chuyện độc lập dân tộc, khát vọng thống nhất đất nước và hành trình xây dựng nền tài chính – tiền tệ tự chủ của Việt Nam.
Cuốn sách “Lịch sử đồng tiền Việt Nam” là một trong những dấu mốc đặc biệt có ý nghĩa sâu sắc đối với ngành Ngân hàng, được chúng tôi ấp ủ, chuẩn bị và dồn nhiều tâm huyết trong suốt một thời gian dài. Với vai trò là chủ biên công trình, có thể nói đây là công trình có sự góp sức của tập thể các nhà khoa học, nhà nghiên cứu cùng phối hợp, với 50 người cùng tham gia công trình để xuất bản cuốn sách “Đồng tiền Việt Nam”. Điều đó cho thấy, đây là quá trình nghiên cứu công phu, không chỉ là hệ thống hoá 1 cách tương đối chặt chẽ, đầy đủ, có tính khoa học, mà còn có hồ sơ phân tích đánh giá tỉ mỉ đối với từng đồng tiền trong mỗi thời kỳ/giai đoạn. Đặc biệt trong cuốn sách này, chúng tôi chọn mốc thời điểm từ năm 968 (sau khi Đinh Bộ Lĩnh dẹp 12 sứ quân để lập nên Đại Cồ Việt) đến năm 970 cho phát hành đồng tiền đầu tiên là Thái Bình Hưng Bảo. Cho đến nay đã hơn 1.000 năm, chúng ta đã trải qua các thời kỳ giai đoạn lịch sử, với hàng nghìn đồng tiền đã được phát hành trong suốt chiều dài lịch sử và được thống kê, tập hợp trong cuốn sách. Đây không chỉ là tài liệu khoa học, mà còn là di sản tri thức, có giá trị lịch sử – văn hóa – kinh tế đặc biệt, phản ánh sinh động hành trình phát triển của đất nước qua lăng kính đồng tiền.
Chúng tôi kỳ vọng, cuốn sách không chỉ là tài liệu nghiên cứu hữu ích cho các nhà khoa học, nhà nghiên cứu lịch sử, kinh tế học, mà còn là một “cầu nối ký ức” giúp công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ, hiểu hơn về những giá trị mà cha ông đã dày công vun đắp. Đây cũng là lời tri ân của ngành Ngân hàng đối với lịch sử dân tộc, đồng thời khẳng định vai trò quan trọng của đồng tiền quốc gia trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Phóng viên: Một điểm rất đặc biệt là hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất hiện xuyên suốt trên các đồng tiền Việt Nam, từ khi được chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là nước CHXHCN Việt Nam phát hành từ năm 1946 đến nay. Điều này mang ý nghĩa như thế nào, thưa đồng chí?
Phó Thống đốc Đào Minh Tú: Hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh được duy trì xuất hiện xuyên suốt trên các đồng tiền Việt Nam, từ những tờ bạc đầu tiên được phát hành năm 1946 cho đến tiền polymer hiện nay là một lựa chọn có chủ đích rõ ràng, thể hiện sự nhất quán về biểu tượng quốc gia, sự ổn định về chính trị và bản sắc riêng biệt của đồng tiền Việt Nam. Điều này không đơn thuần là sự tôn vinh một cá nhân trong lịch sử, mà là sự khẳng định những giá trị cốt lõi mà dân tộc Việt Nam lựa chọn và giữ gìn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người khai sinh ra Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – nay là nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Nhưng quan trọng hơn, Người không chỉ có vai trò lịch sử, mà còn là biểu tượng đạo đức, văn hóa và tư tưởng của cả dân tộc. Trong con mắt của người Việt, hình ảnh Bác Hồ không chỉ gợi nhớ đến một con người cụ thể, mà là đại diện cho bản sắc văn hóa, tinh thần yêu nước, ý chí độc lập dân tộc, cũng như đạo đức, cốt cách và tinh thần của người Việt Nam. Có thể nói, hình ảnh Bác vừa gần gũi, thân thuộc lại vừa thiêng liêng trong tâm thức dân tộc Việt Nam. Đồng tiền của Việt Nam với hình ảnh Bác Hồ đã tạo nên giá trị vô cùng lớn, không chỉ về mặt kinh tế và sự ổn định giá trị đồng tiền, mà còn tạo nên giá trị về niềm tin, niềm tự hào về văn hoá của dân tộc.
Phóng viên: Từ công trình “Lịch sử đồng tiền Việt Nam”, đồng chí có thông điệp gì gửi đến thế hệ trẻ và công chúng nói chung?
Phó Thống đốc Đào Minh Tú: Công trình “Lịch sử đồng tiền Việt Nam” không chỉ đơn thuần là một cuốn sách nghiên cứu về tiền tệ, mà còn là một lát cắt sinh động của lịch sử dân tộc. Qua hành trình của đồng tiền, chúng ta có thể thấy được cả một quá trình đấu tranh giành độc lập, bảo vệ chủ quyền và xây dựng đất nước của cha ông ta.
Tôi nghĩ rằng, với thế hệ trẻ và công chúng hôm nay, việc hiểu về lịch sử đồng tiền cũng là một cách để hiểu về lịch sử đất nước, về những hy sinh, nỗ lực để có được một nền tài chính – tiền tệ độc lập, tự chủ như hôm nay.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói rất giản dị mà sâu sắc: “Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam” . Hiểu lịch sử – kể cả lịch sử qua đồng tiền – là cách để chúng ta thêm yêu nước, thêm tự hào và từ đó có trách nhiệm gìn giữ, phát huy những giá trị mà thế hệ trước đã dày công vun đắp.
Tôi mong thế hệ trẻ hôm nay – những người mang khát vọng dựng xây đất nước – sẽ hiểu rằng, mỗi tờ tiền không chỉ có giá trị vật chất, mà còn mang linh hồn dân tộc, là thành quả của biết bao thế hệ đi trước đã hy sinh, gìn giữ. Biết quý trọng đồng tiền Việt Nam cũng là biết gìn giữ niềm tin, giữ ổn định cho hiện tại và kiến tạo cho tương lai đất nước bước vào thời kỳ cất cánh, phát triển mạnh mẽ.
Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn Phó Thống đốc !