Chuyên gia: Nghị quyết 68 khơi dậy tiềm năng nội tại, thúc đẩy kinh tế tư nhân hội nhập toàn cầu

"Với nghị quyết 68 thì kinh tế tư nhân từ vị thế “bộ phận quan trọng” lên thành “động lực chiến lược”, khơi dậy tiềm năng nội tại, biến thành khu vực dẫn dắt tăng trưởng và hội nhập quốc tế của Việt Nam trong kỷ nguyên mới".

Nghị quyết số 68 về Phát triển kinh tế tư nhân của Bộ Chính trị đã tạo ra một bước ngoặt lớn, giúp kinh tế tư nhân trở thành động lực chính và quan trọng nhất của nền kinh tế, là lực lượng tiên phong trong phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Hiện nay, khu vực này đóng góp khoảng 50% cho GDP.

Trong khi đó lực lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) chiếm phần lớn trong doanh nghiệp tư nhân, và cũng chiếm phần đông doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán hiện nay. Trao đổi về vấn đề này trong Talk show Phố Tài chính (The Finance Street) trên VTV8, các chuyên gia đánh giá, với Nghị quyết 68 cùng nhiều chính sách mới mang tính chiến lược đột phá sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp SME có những bước phát triển lớn mạnh, đóng góp nhiều hơn cho nền kinh tế trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

BTV Khánh Ly: Nghị quyết 68 ra đời không chỉ được coi là kim chỉ nam cho sự phát triển của nền kinh tế tư nhân, mà còn tạo động lực mới mạnh mẽ cho nền kinh tế, hai ông đánh giá như thế nào về điều này?

GS. TS Mạc Quốc Anh, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa TP Hà Nội:  Nghị quyết số 68 của Bộ Chính trị được ban hành, chúng tôi đánh giá đây là một dấu mốc và bước ngoặt vô cùng quan trọng về mặt chính trị cũng như về kinh tế.

Trong thời gian vừa qua, nền kinh tế chúng ta đang dựa vào nhiều về khối FDI, đầu tư từ phía bên ngoài vào Việt Nam. Với Nghị quyết số 68, chúng ta đặt mục tiêu đến năm 2030 có 2.000.000 doanh nghiệp, nghĩa là cứ 1.000 người dân thì có hai doanh nghiệp.

Với mục tiêu như vậy phải nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp tư nhân để giúp các doanh nghiệp tư nhân phát triển một cách bền vững, có tính cạnh tranh cao không chỉ là thực hiện tốt trong việc phân phối, cung cấp sản phẩm, dịch vụ với các thị trường nội địa và mong muốn đưa lực lượng doanh nghiệp tư nhân phải hội nhập kinh tế quốc tế một cách thành công.

Ông Hoàng Trung Hiếu, Giám đốc Trung tâm Phát triển Sản phẩm (Khối SME), VPBank:  Nhìn lại lịch sử, trước nghị quyết 68 thì cũng đã có Nghị quyết số 09-NQ/TW năm 2001 về phát triển kinh tế tư nhân, khi đó là nghị quyết đầu tiên của Trung ương chuyên biệt về khu vực kinh tế tư nhân, xác định kinh tế tư nhân “là bộ phận quan trọng” của nền kinh tế, cần khuyến khích phát triển lâu dài.

Còn với nghị quyết 68, vai trò của kinh tế tư nhân đã được nâng lên một tầm mới. Nghị quyết 68 ra đời đóng vai trò định hướng, là kim chỉ nam đã xác lập vị thế chiến lược, chính thức coi kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; Định hướng chính sách phát triển đồng bộ, tạo cơ chế, chính sách minh bạch, bình đẳng; loại bỏ rào cản, giảm chi phí không chính thức; Khơi dậy sức mạnh nội tại, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, nâng cao năng suất và sức cạnh tranh; Hình thành đội ngũ doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh, gắn với trách nhiệm xã hội và hội nhập quốc tế; Đặt nền móng để kinh tế tư nhân trở thành trụ cột quốc gia cùng kinh tế nhà nước và FDI, là động lực bền vững của tăng trưởng.

Như vậy có thể thấy, với nghị quyết 68 thì kinh tế tư nhân từ vị thế “bộ phận quan trọng” lên thành “động lực chiến lược”, khơi dậy tiềm năng nội tại, biến thành khu vực dẫn dắt tăng trưởng và hội nhập quốc tế của Việt Nam trong kỷ nguyên mới.

Thực tế, các doanh nghiệp nhỏ và vừa SME chiếm phần lớn trong số các doanh nghiệp tư nhân trên cả nước, cũng là chiếm phần lớn các doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán. Như vậy, hai ông đánh giá như thế nào về vai trò của các doanh nghiệp SME trong thời gian qua?

GS. TS Mạc Quốc Anh: Kinh tế tư nhân sau năm 1986 đã phát triển rất nhiều hộ kinh doanh, kinh tế tập thể, kinh tế mậu dịch.

Vào năm 1991, chỉ có khoảng vài nghìn doanh nghiệp tư nhân thì đến hiện nay, số lượng và chất lượng của kinh tế tư nhân, cũng như các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã được nâng cao nhiều, đảm bảo về công ăn việc làm, đời sống dân sinh của các cán bộ, công nhân viên, đặc biệt ở những các ngành, lĩnh vực ở các vùng sâu, vùng xa.

Chúng tôi đánh giá vai trò của việc hình thành kinh tế tình nhân đã đóng góp một phần lớn trong việc hình thành đội ngũ tiên phong dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới và dám chịu trách nhiệm trong nền kinh tế.

Ở trong khối kinh tế tư nhân, họ đã kết hợp với các nhà khoa học, các viện để có nhiều sản phẩm, dịch vụ có áp dụng trình độ khoa học công nghệ, có nhiều sản phẩm về kinh tế tư nhân cũng như chuyển đổi xanh để tiết kiệm, giảm chi phí về tiêu hao năng lượng, tiết kiệm về chi phí.

Và một phần nữa tôi đánh giá là kinh tế tư nhân cũng đã đóng góp rất lớn trong việc xây dựng chuỗi giá trị cung ứng, kết nối giữa các tổ chức phi Chính phủ, kết nối với các cơ quan quản lý nhà nước để xây dựng một chuỗi giá trị cung ứng.

Ông Hoàng Trung Hiếu:  Những đóng góp của kinh tế tư nhân đã được Đảng và Chính phủ ghi nhận, theo số liệu thống kê gần đây nhất, kinh tế tư nhân đang đóng góp khoảng 50% GDP, khoảng 82% việc làm và kinh tế tư nhân càng ngày càng trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế.

Thực tế, giai đoạn trước đây, kinh tế tư nhân dù còn gặp những khó khăn như chính sách đôi khi chưa đồng bộ, vẫn có sự phân biệt giữa kinh tế tư nhân so với khu vực kinh tế nhà nước và FDI. Số lượng doanh nghiệp tư nhân nhiều nhưng phát triển còn tương đối manh mún, nhỏ lẻ và sức cạnh tranh còn thấp…Chính vì vậy, sự ra đời của Nghị quyết 68 được tạo ra kỳ vọng lớn cho khối doanh nghiệp tư nhân phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới.

Trước khi có nghị quyết 68 thì cũng đã có rất nhiều giải pháp để hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển, các chính sách đó đã phát huy tác dụng như thế nào thưa hai ông?

GS. TS Mạc Quốc Anh:  Trong thời gian vừa qua, chúng tôi đánh giá rất cao về vai trò, vị trí, sự đóng góp của kinh tế tư nhân. Câu chuyện đầu tiên là kinh tế tư nhân đã có một vai trò nhất định trong việc thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính, thể chế, cũng như chủ động tham gia đối thoại với các cơ quan nhà nước, Chính phủ và các bộ, ngành để tháo gỡ hàng loạt khó khăn, vướng mắc.

Thực tế cho thấy, khu vực kinh tế tư nhân hiện chiếm khoảng 42% GDP cả nước, đóng góp hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước và thu hút trên 85% lực lượng lao động. Hiện nay, Việt Nam có hơn 940.000 doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tới 97% tổng số doanh nghiệp. Riêng tại Hà Nội, mỗi năm có trên 25.000 doanh nghiệp mới đăng ký, đưa tổng số doanh nghiệp đang hoạt động trên địa bàn lên khoảng 410.000, trong đó phần lớn là khối SMEs.

Trong 10 năm trở lại đây, Nhà nước đã ban hành hàng loạt chủ trương, nghị quyết, nghị định, thông tư và văn bản hướng dẫn, mà dấu ấn nổi bật là sự tham gia tích cực, đóng góp ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp tư nhân – đặc biệt là khối doanh nghiệp nhỏ và vừa. Điển hình có thể kể đến: Nghị quyết số 35/NQ-CP (2016) về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020, Nghị quyết số 10-NQ/TW (2017) về phát triển kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế, và mới đây là Nghị quyết số 68-NQ/TW (2025) về tiếp tục đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả kinh tế tư nhân.

Những chính sách này được ban hành không chỉ phản ánh sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, mà còn thể hiện rõ vai trò đóng góp, phản biện và đồng hành của cộng đồng doanh nghiệp, góp phần tạo môi trường kinh doanh ngày càng minh bạch, công bằng và hiệu quả.

Ông Hoàng Trung Hiếu:  Như đã chia sẻ, trước Nghị quyết 68 thì kinh tế tư nhân đã có những đóng góp quan trọng của cho GDP và tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, dù được đánh giá tích cực nhưng chưa được thừa nhận là động lực chiến lược như bây giờ.

Đối với VPB, chúng tôi đã sớm nhận thức được tầm quan trọng của kinh tế tư nhân, vì vậy hơn 10 năm qua chúng tôi đã xác định phát triển kinh tế tư nhân là một trong những nhiệm vụ trọng yếu trong chiến lược phát triển, trong đó DN và nhỏ, siêu nhỏ đã được chúng tôi hoạch định là một phân khúc chuyên biệt từ cơ cấu tổ chức, chính sách sản phẩm và năng lực tiếp cận để phục vụ phân khúc doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Trong thời gian tới, cùng với Nghị quyết 68 ra đời, với việc thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân cũng như thúc đẩy các doanh nghiệp SME thì nền kinh tế vĩ mô sẽ đạt được sự tăng trưởng tích cực như thế nào trong thời gian tới, theo hai ông?

GS. TS Mạc Quốc Anh:  Về sự đóng góp chung đối với nền kinh tế, đầu tiên về mặt số lượng trong 08 tháng đầu năm 2025, số lượng doanh nghiệp được thành lập mới, số lượng doanh nghiệp quay trở lại thị trường đã tăng trên 20%, dòng vốn đăng ký quay lại thị trường cũng tăng trên 30%. Như vậy, chắc chắn sự đóng góp của kinh tế tư nhân đã thực thi đúng tính hiệu quả, thiết thực, ý nghĩa của Nghị quyết 68.

Trong khi đó, kinh tế của khu vực và trên thế giới có nhiều thị trường hiện nay đang phát triển âm, thị trường kinh tế Việt Nam chúng ta vẫn đang phát triển dương và mục tiêu của chúng ta là tăng trưởng hai con số. Trong thời gian vừa qua, Chính phủ, hệ thống các ngân hàng đang dành rất nhiều chương trình hỗ trợ cụ thể và hiệu quả cho các doanh nghiệp, bởi vì đây là những doanh nghiệp mà gần như là chúng tôi đánh giá là xương sống của nền kinh tế.

Và về mặt thị trường chúng ta thấy hiện nay rất nhiều đoàn của các bộ, ngành đã đưa các doanh nghiệp giới thiệu và quảng bá các nhiều sản phẩm ra cộng đồng quốc tế. Việt Nam chúng ta cũng là một điểm đến của rất nhiều các nhà đầu tư, khi tỷ trọng FDI quay lại thị trường Việt Nam chúng ta đã tăng gần 20%, không chỉ tạo ra công ăn việc làm khi các doanh nghiệp tư nhân phát triển mà quan trọng nhất là sự phát triển của các doanh nghiệp đang trên đà bền vững.

Ông Hoàng Trung Hiếu:  Theo tôi, Nghị quyết 68 không chỉ xác lập vị thế chiến lược, lần đầu tiên coi kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế, ngang tầm cùng kinh tế nhà nước và FDI, mà còn tạo ra kỳ vọng tạo sự chuyển biến về nhận thức trong toàn hệ thống chính trị và xã hội, không còn định kiến, phân biệt.

Đồng thời, thúc đẩy tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, khu vực tư nhân trở thành một trụ cột trong cơ cấu kinh tế quốc dân, đóng góp mạnh mẽ vào GDP, ngân sách, xuất khẩu và việc làm, cũng như hướng tới phát triển khu vực tư nhân lớn mạnh, có năng lực cạnh tranh quốc tế. Bên cạnh đó, sẽ phát triển đồng bộ các loại hình doanh nghiệp, khuyến khích hình thành đội ngũ doanh nghiệp tư nhân lớn, thương hiệu mạnh, thúc đẩy doanh nghiệp nhỏ và vừa, khởi nghiệp sáng tạo, hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp.

Ngoài ra, nâng cao chất lượng tăng trưởng doanh nghiệp, doanh nghiệp tư nhân phải đi cùng đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ, quản trị hiện đại, góp phần nâng cao năng suất lao động, hiệu quả và sức cạnh tranh quốc gia. Cuối cùng là bảo đảm kinh tế tư nhân phát triển gắn liền với trách nhiệm xã hội, bảo vệ môi trường, tuân thủ pháp luật, góp phần củng cố an sinh xã hội, công bằng và ổn định lâu dài.

Nghị quyết 68 ra đời, mục tiêu của Đảng, Nhà nước và Chính phủ rất rõ ràng. Hiện tại, chúng ta đang có gần 1.000.000 doanh nghiệp đóng góp khoảng 50% GDP và hơn 80% lực lượng lao động, thì tầm nhìn đến năm 2030, Chính phủ đặt mục tiêu có khoảng 2.000.000 doanh nghiệp, kinh tế tư nhân tăng tưởng hai con số khoảng 10% - 12% và ít nhất có 20 doanh nghiệp hàng đầu tham gia sâu vào các chuỗi giá trị của thế giới.

Ngoài sự hỗ trợ đến từ Chính phủ, đến từ các ngân hàng hay huy động vốn qua thị trường chứng khoán thì chính doanh nghiệp cũng cần phải đáp ứng những tiêu chí như thế nào để nhận được sự hỗ trợ tối đa cho sự phát triển của doanh nghiệp, qua đó đóng góp nhiều hơn cho kinh tế đất nước?

GS. TS Mạc Quốc Anh:  Chúng tôi nghĩ để đạt được hiệu quả các chính sách hỗ trợ, doanh nghiệp cần đáp ứng nhiều yếu tố. Yếu tố đầu tiên đó là chính phủ, các bộ, ngành và các địa phương chúng ta phải kiến tạo và các ngân hàng, các tổ chức tín dụng đồng hành cùng doanh nghiệp.

Yếu tố thứ hai là doanh nghiệp phải tự lực. Để đáp ứng tiêu chí này, chúng tôi mong muốn việc đầu tiên, đó là doanh nghiệp phải nâng cao năng lực quản trị, khi chúng ta triển khai tinh gọn bộ máy, chính quyền 2 cấp còn 34 tỉnh thành, thì việc năng cao năng lực quản trị ở đây chính là pháp lý, các chính sách, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước trong thời gian vừa qua đã triển khai, doanh nghiệp phải đáp ứng để thụ hưởng.

Phần thứ hai nữa, để phát triển bền vững thì cần đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn ESG để các doanh nghiệp chúng ta đáp ứng không chỉ thị trường nội địa mà còn thị trường quốc tế. Chúng ta phải thực hiện chuyển đổi kép đó là chuyển đổi xanh và chuyển đổi số, việc áp dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo ở các doanh nghiệp tư nhân trong thời gian vừa qua còn tương đối hạn chế, để bước vào một kỷ nguyên mới, các doanh nghiệp chúng ta phải áp dụng khoa học công nghệ ở trình độ tiên tiến nhất để có nhiều các sản phẩm, dịch vụ sáng tạo, đủ sức cạnh tranh, đi vào các thị trường mà chúng ta đã có nhiều hiệp định thương mại song phương và đa phương.

Yếu tố thứ nữa đó là phải nâng cao được chất lượng đội ngũ cán bộ, công nhân viên, người lao động để đáp ứng được yêu cầu của đổi mới trong thời gian tới. Cuối cùng, tôi nghĩ là doanh nghiệp cần xây dựng chuỗi giá trị cung ứng ở trong các nước và ở trong khu vực mà chúng ta đã ký kết hợp tác là vô cùng quan trọng. Để làm được điều đó, doanh nghiệp chúng ta phải giữ được uy tín, giữ được niềm tin với khách hàng và đối tác.

Ông Hoàng Trung Hiếu: Theo tôi, bên cạnh sự hỗ trợ từ Chính phủ và hệ thống ngân hàng, bản thân các doanh nghiệp, đặc biệt là SME cũng cần chủ động đáp ứng một số tiêu chí quan trọng để có thể nhận được sự hỗ trợ tối đa và phát triển bền vững.Thứ nhất là tính minh bạch, doanh nghiệp cần quản trị tài chính, kế toán rõ ràng, minh bạch, tuân thủ pháp luật và nghĩa vụ thuế.

Thứ hai là năng lực quản trị, phải xây dựng hệ thống quản lý hiệu quả, ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số để tăng năng suất, giảm chi phí. Thứ ba là tinh thần đổi mới sáng tạo, liên tục cải tiến sản phẩm, dịch vụ, nâng cao chất lượng, xây dựng thương hiệu uy tín. Thứ tư, trách nhiệm xã hội và phát triển bền vững, chú trọng môi trường, trách nhiệm với người lao động, cộng đồng và khách hàng.

Và cuối cùng là khả năng hội nhập, sẵn sàng tham gia chuỗi giá trị, hợp tác cùng đối tác trong và ngoài nước, nâng cao năng lực cạnh tranh toàn cầu. Khi doanh nghiệp tự nâng mình lên theo những tiêu chí đó, thì mọi nguồn lực hỗ trợ từ Nhà nước, ngân hàng và xã hội sẽ phát huy hiệu quả tối đa, giúp doanh nghiệp không chỉ phát triển riêng lẻ mà còn đóng góp nhiều hơn cho sự thịnh vượng chung của nền kinh tế.