Những thách thức cho xuất khẩu
Chiều 14/8, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã tổ chức “Diễn đàn Doanh nghiệp 2025: Giải pháp đột phá hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thị trường mới” nhằm đưa ra các giải pháp thực tiễn, khả thi giúp doanh nghiệp Việt Nam nhanh chóng mở rộng thị trường, đặc biệt là các thị trường tiềm năng trong khu vực và thế giới.
Phát biểu tại Diễn đàn, ông Hoàng Quang Phòng – Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã nhấn mạnh việc mở rộng thị trường là “bài toán sống còn” đối với doanh nghiệp Việt trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt và sự biến động của chuỗi cung ứng toàn cầu, góp phần để thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế từ 8% trở lên năm 2025.

Ông Hoàng Quang Phòng – Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
Thực tế thời gian qua, để hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng, Đảng và Nhà nước, Chính phủ đã có nhiều quyết sách để phát triển doanh nghiệp, hướng tới bảo đảm mục tiêu tăng trưởng cả nước.
Tuy vậy, trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang có những biến động khó lường, đặc biệt là mức thuế đối ứng 20% mới của Mỹ được áp dụng với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, nhu cầu tìm kiếm thị trường mới trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
“Diễn biến này sẽ ảnh hưởng đến dòng chảy thương mại toàn cầu nói chung và đặt ra những thách thức cho xuất khẩu từ Việt Nam sang Mỹ cũng gia tăng áp lực cho doanh nghiệp trong nước”, ông Phòng nhấn mạnh.

Diễn đàn Doanh nghiệp 2025: Giải pháp đột phá hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thị trường mới
Theo đó, việc tiếp cận và khai thác hiệu quả các thị trường mới gắn liền với quá trình tái cơ cấu các ngành hàng xuất khẩu của nền kinh tế cũng như tái cấu trúc hoạt động sản xuất kinh doanh.
Phó Chủ tịch VCCI cũng lưu ý “quá trình chuyển đổi này không dễ dàng, không diễn ra trong ngày một ngày hai”. Đó là chuyển đổi tư duy sản xuất và đầu tư chiến lược, bài bản cho công nghệ, quản trị nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, gia tăng giá trị sản phẩm.
Trên cơ sở đó, nâng cao sức cạnh tranh, khả năng thích ứng, mở rộng cơ hội tiếp cận các thị trường khắt khe của doanh nghiệp cũng như những cạnh tranh gay gắt và khó lường của thương mại đầu tư toàn cầu.
Liên kết để cùng bứt phá
Tại đây, TS. Nguyễn Văn Hội – Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương cũng nhấn mạnh vai trò then chốt của các hiệp định thương mại tự do (FTA) trong việc mở rộng thị trường, đặc biệt đối với những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Ông cho rằng, các FTA chính là “đường cao tốc” đưa hàng Việt vươn xa, giúp doanh nghiệp không chỉ gia tăng sản lượng xuất khẩu, đa dạng hóa thị trường mà còn giảm đáng kể chi phí sản xuất nhờ ưu đãi thuế quan.
Đồng thời, FTA cũng tạo sức ép buộc hệ thống pháp luật, chính sách trong nước phải minh bạch hơn, phù hợp hơn với thông lệ quốc tế, qua đó mở rộng cơ hội tiếp cận của các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường Việt Nam.

TS. Nguyễn Văn Hội – Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương.
Từ năm 1992 đến nay, Việt Nam đã ký kết 17 FTA với các đối tác quan trọng như ASEAN, Liên minh châu Âu (EU), Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Vương quốc Anh, Australia… Mới đây nhất, năm 2024, Việt Nam và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE) ký Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện, hiện đang hoàn tất thủ tục để chính thức có hiệu lực.
Nếu như trước đây, nội dung đàm phán FTA chủ yếu xoay quanh cắt giảm thuế nhập khẩu hay áp dụng hạn ngạch thuế quan, thì nay các cam kết đã mở rộng sang nhiều lĩnh vực như dệt may, quy tắc xuất xứ, lao động, dịch vụ…
Đặc biệt, các FTA thế hệ mới như CPTPP và EVFTA không chỉ thúc đẩy tự do hóa thương mại hàng hóa và dịch vụ, mà còn bao trùm những lĩnh vực “phi truyền thống” như lao động, môi trường, minh bạch hóa và cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư, với tiêu chuẩn cao và yêu cầu thực thi nghiêm ngặt hơn.
Dẫn kết quả, ông Hội cho biết năm 2024, Việt Nam đạt GDP 476,3 tỷ USD, đứng thứ 33 thế giới; GDP bình quân đầu người đạt 4.649 USD. Dòng vốn FDI đạt 25,35 tỷ USD, đưa Việt Nam vào nhóm 20 quốc gia thu hút đầu tư lớn nhất.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 769 tỷ USD, thuộc top 20 toàn cầu; trong đó xuất khẩu đạt 405,53 tỷ USD, đứng hạng 20, nhập khẩu 380,76 tỷ USD, hạng 23. Xuất khẩu nông sản đạt 32,8 tỷ USD, đứng thứ 15 thế giới; riêng gạo đạt 9,18 triệu tấn, trị giá 5,75 tỷ USD, giữ vị trí thứ 3 toàn cầu.
Dù dư địa và cơ hội rất lớn, TS. Nguyễn Văn Hội cũng chỉ rõ nhiều thách thức hiện hữu: sự phụ thuộc vào một số thị trường xuất khẩu và khu vực FDI còn lớn, tỷ trọng thu ngân sách từ thuế xuất nhập khẩu cao, thị trường dịch vụ tài chính trong nước chưa phát triển, trong khi năng lực và trình độ của đội ngũ quản lý nhà nước cần được nâng cao.
Ông nhấn mạnh: “Để biến tiềm năng thành lợi thế cạnh tranh, Việt Nam phải tiếp tục hoàn thiện thể chế, tạo môi trường kinh doanh minh bạch, thuận lợi, đồng thời nâng sức cạnh tranh cho nền kinh tế, doanh nghiệp và sản phẩm”.
GS.TS Hoàng Văn Cường – Ủy viên Ủy ban Kinh tế - Tài chính của Quốc hội cho rằng, dù căng thẳng thương mại toàn cầu vẫn chưa hạ nhiệt, cơ hội dành cho doanh nghiệp Việt Nam vẫn rất lớn. Vấn đề là phải biết khai thác tối đa tiềm năng từ các cơ hội xuất khẩu để hiện thực hóa mục tiêu sản xuất – kinh doanh và tăng trưởng.
Theo ông, doanh nghiệp trong nước hiện vẫn phải cạnh tranh quyết liệt từ khâu nguyên liệu đến đầu ra thị trường. Nếu các doanh nghiệp “bắt tay” liên kết, cục diện sẽ thay đổi. Giải pháp quan trọng là các hiệp hội ngành hàng cần chủ động đóng vai trò “nhạc trưởng”, thúc đẩy hình thành hệ sinh thái chuỗi cung ứng giữa các doanh nghiệp.

GS.TS Hoàng Văn Cường – Ủy viên Ủy ban Kinh tế - Tài chính của Quốc hội.
Trong đó, cần xác định những doanh nghiệp “đầu đàn” làm hạt nhân dẫn dắt, đồng thời Nhà nước có cơ chế hỗ trợ phù hợp để kết nối doanh nghiệp lớn với doanh nghiệp nhỏ, tạo sức mạnh cộng hưởng. Song song, Nhà nước cũng cần đẩy mạnh ký kết các hiệp định nhằm mở rộng thị trường.
GS.TS Hoàng Văn Cường nhận định, để doanh nghiệp nhanh chóng tận dụng các thị trường từ những FTA đã ký, vẫn cần có những kế hoạch xúc tiến mang tính chiến lược, tăng cường cung cấp thông tin chi tiết về từng ngành, từng nhóm sản phẩm cho doanh nghiệp.
Ông cũng nhấn mạnh yêu cầu hoàn thiện hạ tầng phục vụ xuất khẩu, phát triển dịch vụ bổ trợ, và tăng cường liên kết không chỉ giữa doanh nghiệp trong nước với nhau, mà còn với các đối tác sản xuất và tiêu thụ ở nước ngoài.