Hàng giả 'bủa vây' thị trường: Chuyên gia RMIT hiến kế loạt giải pháp công nghệ giúp doanh nghiệp lật ngược thế cờ

Doanh nghiệp cần công nghệ truy xuất nguồn gốc để bảo vệ sản phẩm và người tiêu dùng.

Hàng giả

Lo ngại từ vấn nạn hàng giả tràn lan

Nhiều vụ hàng giả lớn vừa bị phanh phui liên quan tới các mặt hàng thiết yếu như sữa, dầu ăn, thuốc và thực phẩm chức năng, đe dọa sức khỏe người tiêu dùng và gây thiệt hại kinh tế. Hàng giả xuất hiện tràn lan làm giảm doanh thu từ sản phẩm chính hãng và tổn hại uy tín thương hiệu, ảnh hưởng nghiêm trọng đến cộng đồng doanh nghiệp sản xuất tại Việt Nam.

"Doanh nghiệp phải trả phí để được bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và mất phí khởi kiện nếu bị đạo nhái, trong khi đó hàng giả lại thỏa sức tung hoành tạo ra cạnh tranh không công bằng", Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng, chủ nhiệm cấp cao bộ môn Quản lý chuỗi cung ứng và logistics tại Đại học RMIT Việt Nam, giải thích.

"Sản phẩm giả kém chất lượng còn đem đến rủi ro cho người tiêu dùng, làm giảm niềm tin vào toàn ngành. Các tác động này đặc biệt nghiêm trọng đối với những sản phẩm thiết yếu như thực phẩm, đồ uống, dược mỹ phẩm hay hàng tiêu dùng hằng ngày", ông nói.

Theo chuyên gia Đại học RMIT, chống hàng giả trong quản lý chuỗi cung ứng sản phẩm thiết yếu đang gặp khó khăn do chi phí cao và hàng giả ngày càng tinh vi khiến việc xác minh nguồn gốc khá phức tạp. Hơn nữa, hàng giả thường xuất hiện ở các kênh phân phối phi chính thức mà khung pháp lý chưa đủ mạnh để xử lý vi phạm.

Tiến sĩ Hùng nói: "Điều này khiến việc nâng cao năng lực quản lý chuỗi cung ứng nhằm chống lại hàng giả trở thành yêu cầu sống còn đối với các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm thiết yếu. Chưa kể đây cũng có thể là con đường giúp họ đạt được lợi thế cạnh tranh đáng kể trong bối cảnh hiện tại".

Doanh nghiệp cần làm gì để đối phó với hàng giả?

Theo Tiến sĩ Nguyễn Cảnh Lam, giảng viên ngành Quản lý chuỗi cung ứng và logistics tại Đại học RMIT Việt Nam, tăng cường khả năng truy xuất nguồn gốc sản phẩm vào chuỗi cung ứng là ưu tiên hàng đầu với doanh nghiệp.

Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng xây dựng các ứng dụng chia sẻ thông tin chuỗi cung ứng dựa trên công nghệ blockchain có thể giúp doanh nghiệp chống lại hàng giả. Ví dụ trên mỗi bao gạo, người dùng có thể dùng điện thoại để quét mã QR và tự kiểm tra thông tin về nguồn gốc xuất xứ cũng như thông tin kho vận được lưu trên ứng dụng của nhà sản xuất sử dụng công nghệ blockchain.

Blockchain có ưu điểm rõ rệt so với công nghệ lưu trữ tập trung truyền thống – nơi thông tin có thể bị doanh nghiệp thao túng hay chỉnh sửa, khiến người dùng mất đi sự tin tưởng với những thông tin mà họ đọc được.

"Công nghệ blockchain cung cấp một phương pháp bảo mật để theo dõi và xác minh tính xác thực của sản phẩm, đảm bảo tính toàn vẹn dữ liệu và khả năng truy xuất nguồn gốc, khiến hàng giả khó xâm nhập vào chuỗi cung ứng", Tiến sĩ Lam nói.

Ông cho biết, công nghệ này nếu được áp dụng sẽ giúp các doanh nghiệp thuyết phục người tiêu dùng về tính minh bạch của thông tin trên từng chặng trong chuỗi cung ứng sản phẩm.

"Sử dụng blockchain để xây dựng phần mềm truy xuất nguồn gốc buộc doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm với thông tin mà mình đưa lên và giúp cơ quan quản lý có thể theo dõi và điều tra khi phát hiện hàng giả", ông nói.

Hàng giả

Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng (trái) và Tiến sĩ Nguyễn Cảnh Lam (phải)

Tiến sĩ Lam cũng cho rằng việc sử dụng bao bì chống làm giả (tamper-proof packaging) vẫn là một giải pháp hiệu quả để bảo vệ sản phẩm thiết yếu khỏi hàng giả. Loại bao bì này được thiết kế để ngăn chặn việc mở hoặc can thiệp vào sản phẩm mà không để lại dấu hiệu rõ ràng.

Các loại bao bì chống làm giả phổ biến hiện nay bao gồm băng keo niêm phong, vòng co, niêm phong cảm ứng, bao bì bọt hoặc vỉ, và nhãn an ninh với keo hoặc thiết kế đặc biệt. Các loại bao bì này không thể tái sử dụng để ngăn chặn ý đồ sản xuất hàng giả. Trên bao bì phải có đặc điểm nhận dạng như hoa văn, tên, nhãn hiệu đã đăng ký, logo, hoặc hình ảnh mà không thể dễ dàng sao chép.

Nhà sản xuất cũng có thể in mã QR hoặc mã vạch lên bao bì để người tiêu dùng truy xuất nguồn gốc của từng lô sản phẩm trên trang web chính thức bằng cách quét mã trên điện thoại thông minh. Đối với các mặt hàng giá trị cao, sử dụng các chip công nghệ như RFID hay NFC gắn vào từng sản phẩm cũng là phương án chống hàng giả hữu hiệu.

In ấn thủy vân số trực tiếp vào sản phẩm (cyber-physical watermarking) là một công nghệ quan trọng và tiết kiệm chi phí để chống hàng giả, đặc biệt trong ngành thực phẩm và dược phẩm. Thủy vân số, vốn đã khá quen thuộc với các sản phẩm kỹ thuật số, là hình mờ được chèn trên các video hay hình ảnh để đánh dấu bản quyền. Kỹ thuật này có thể được kết hợp với công nghệ in ấn vật lý để đánh dấu xác thực lên các sản phẩm thiết yếu.

Chẳng hạn, một nghiên cứu năm 2022 trên tạp chí Advanced Functional Materials đã tìm ra cách in phun hình ảnh thủy vân số bằng phẩm màu thực phẩm an toàn lên từng liều thuốc, thậm chí từng viên thuốc, cung cấp giải pháp xác thực sản phẩm.

Các công nghệ này thêm các lớp bảo vệ bổ sung, khiến cho việc sao chép sản phẩm trở nên khó khăn hơn đối với những kẻ làm giả, đồng thời đảm bảo rằng người tiêu dùng nhận được hàng hóa chính hãng, nguyên vẹn và an toàn.

Song song với việc ứng dụng các phương pháp này, doanh nghiệp cần tăng cường truyền thông tới người dùng, giúp khách hàng cảnh giác hơn, giảm thiểu sự phổ biến của sản phẩm giả.

Người tiêu dùng cần nâng cao nhận thức

Về phía người tiêu dùng, việc tự nâng cao nhận thức là điều cần thiết hơn bao giờ hết. Ngoài việc thường xuyên cập nhật thông tin về hàng giả trên thị trường và ưu tiên mua hàng từ các nguồn hàng uy tín, Tiến sĩ Hùng cho rằng người tiêu dùng cần tăng cường hiểu biết về các phương pháp chống hàng giả mà các doanh nghiệp đang ứng dụng.

"Người dùng cần tạo thói quen dùng điện thoại thông minh của mình để truy xuất nguồn gốc sản phẩm từ mã QR, chip gắn liền hoặc thủy vân số in trên sản phẩm, đồng thời nên sử dụng hàng hóa của các doanh nghiệp cung cấp thông tin nguồn gốc sản phẩm minh bạch, có kiểm chứng", Tiến sĩ Hùng khuyến nghị.

Xây dựng văn hóa tiêu dùng bài trừ hàng giả cũng là một yếu tố hết sức quan trọng, bởi từ lâu nay chúng ta đã quen với việc mua các sản phẩm nhái ở các ngành hàng như đồ thời trang hay thiết bị điện tử.

Theo Tiến sĩ Hùng, thói quen mua hàng giả của một bộ phận người tiêu dùng đang cổ xúy cho một vòng xoáy xuống cấp, nơi các đơn vị sản xuất hàng nhái lấn chiếm thị phần của các doanh nghiệp chân chính, tạo ra một nền kinh tế méo mó, dung túng cho hành động phi pháp.

"Điều này khuyến khích ra đời các chuỗi cung ứng hàng giả tinh vi với quy mô lớn, làm sản sinh ra những mặt hàng không chỉ kém chất lượng, mà còn tiềm ẩn nguy cơ về sức khỏe. Đây là một xu hướng mà chúng ta cần phải tìm mọi cách đảo ngược", Tiến sĩ Hùng kết lời.